Nhân dân Tiền Giang tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, bắt đầu xâm lược trở lại nước ta. Sau khi đánh chiếm Sài Gòn, quân Pháp tiến đánh Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đêm 26 rạng sáng ngày 27/10/1945, diễn ra trận đánh tại Cầu Nổi (Gò Công) mở đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược tại địa phương.

hoi_nghi_pari

Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (18-1-1969 – 27-1-1973). Nguồn: Tuyên giáo Tiền Giang

Ngày 27/10/1945, một cánh quân khác của Pháp đi đường thủy đổ bộ lên Cầu Tàu (thị xã Mỹ Tho). Cánh đường bộ của quân Pháp theo đoàn xe Anh – Ấn từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho, đến cầu Tân Hương (quận Châu Thành) cũng bị cản lại do cầu bị phá. Ngày hôm sau, địch mới vào được thị xã, nhưng vẫn bị chặn đánh quyết liệt.

Ngày 23/12/1945, quân Pháp vượt qua Kênh Xáng Long Định để tiến chiếm Cai Lậy. Lực lượng vũ trang công đoàn, đại đội 4 và trung đội du kích Cai Lậy tiến hành đốt cháy nhà dây thép, nhà thông tin, các trụ sở, trại lính mã tà…

Cuối tháng 12/1945, quân Pháp đánh chiếm Cái Bè, quân dân địa phương tổ chức nhiều đợt đánh phá, đốn cây cản đường, phá cầu,… để giam chân địch trong thị trấn, tổ chức di chuyển lực lượng ra ngoài để bảo toàn lực lượng.

Cuối tháng 9/1945, Xứ ủy Nam Kỳ cùng Tỉnh ủy Mỹ Tho triệu tập hội nghị mở rộng tại xã Mỹ Phong với sự tham dự của Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt, Dương Khuy, Nguyễn Văn Tiếp. Trên cơ sở phân tích những âm mưu mới của thực dân Pháp, hội nghị quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến và vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến, vận động bà con tản cư ra khỏi thị xã, thị trấn để thực hiện “Vườn không nhà trống”, rút các cơ quan và lực lượng vũ trang ra khỏi thành phố, lập các phòng tuyến ngăn chặn địch, xây dựng căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười, lập các binh công xưởng ở căn cứ, đáp ứng yêu cầu chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Cho đến giữa tháng 10/1945, công tác chuẩn bị của nhân dân Tiền Giang về cơ bản đã hoàn thành. Với sự quyết tâm cao độ, toàn tỉnh sẵn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của Nhân dân Tiền Giang

Cuối tháng 10/1945, quân Pháp tấn công Mỹ Tho và Gò Công. Nhân dân Tiền Giang đã anh dũng cầm súng chiến đấu chống lại địch. Cuộc kháng chiến lần thứ hai chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Tiền Giang đã bùng nổ.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh Đảng bộ, cuộc kháng chiến của nhân dân Tiền Giang phát triển mạnh mẽ.

Về chính trị, ngày 06/01/1946, dưới bom pháo của kẻ thù, nhân dân Tiền Giang đã nô nức đi bầu cử Quốc hội và đã chọn được 5 vị đại biểu đại diện cho nhân dân tỉnh nhà. Tháng 05/1946, Mặt trận Việt Minh tỉnh tiến hành đại hội. Tiếp theo, Hội Liên Việt tỉnh đã được ra đời. Qua đó, khối đoàn kết toàn dân tiếp tục được mở rộng. Chính quyền cách mạng phát triển vững chắc, kiểm soát hoàn toàn vùng nông thôn. Ủy ban Hành chính được đổi thành Ủy ban Kháng chiến – Hành chính để phù hợp với tình hình mới. Cơ sở chính trị quần chúng được xây dựng ở các thị xã, thị trấn. Từ đó, phong trào đấu tranh chính trị ngày càng dâng cao. Các cuộc bãi công, bãi khóa, bãi thị liên tiếp nổ ra. Phần lớn trí thức đều hướng về cách mạng. Nhiều học sinh “Xếp bút nghiên” ra vùng bưng biền tham gia kháng chiến.

Về quân sự, mặc dù có quân đông, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, nhưng quân Pháp chỉ chiếm được các thị xã, thị trấn và một số trục đường giao thông chiến lược. Tuy vậy, bọn chúng vẫn bị quân dân ta thường xuyên tập kích và phải gánh chịu những tổn thất nặng nề.

Trong năm 1946, ta đã giành được những chiến thắng tiêu biểu, như trận Bình Ninh (Chợ Gạo), diệt 40 tên địch; trận Bình Đức (Châu Thành), bắt sống 12 tên và thu 12 súng; trận Long Khánh (Cai Lậy), diệt 40 tên; trận tấn công thị trấn Cái Bè, làm chủ thị trấn trong nhiều giờ; trận Tân Bình Điền (Gò Công), loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên; trận Mỹ Trung – Mỹ An (Cái Bè), tiêu diệt một tiểu đoàn lính Hòa Hảo,…

Lực lượng vũ trang trong tỉnh được xây dựng và phát triển nhanh chóng, bao gồm ba thứ quân: Dân quân du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực. Trong đó, các đơn vị của bộ đội chủ lực ngày càng lớn mạnh.

Năm 1947, ở Mỹ Tho có Trung đoàn 105, ở Gò Công có Tiểu đoàn 305. Năm 1948 – 1949, các Tiểu đoàn 307, 309, 314 của Khu VIII lần lượt được ra đời và tác chiến chủ yếu trên chiến trường Mỹ Tho, Gò Công.

Với tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, quân dân Tiền Giang đã liên tiếp giành được những chiến công vang dội. Điển hình là các chiến thắng Cổ Cò (22/01/1947), Giồng Dứa (25/4/1947).

Về kinh tế, ta đã thành công trong việc vận động địa chủ hiến ruộng và giảm 50% mức địa tô. Đồng thời, chính quyền cách mạng còn tạm cấp ruộng đất cho nông dân thiếu hoặc không có ruộng. Do đó, giai cấp nông dân rất phấn khởi trong sản xuất và đóng góp hậu cần ngày càng nhiều cho kháng chiến. Phong trào “Thi đua ái quốc” do Hồ Chủ tịch phát động được nhân dân Tiền Giang tích cực hưởng ứng. Nhân dân ra sức xây dựng và phát triển nền kinh tế kháng chiến; thực hiện triệt để công tác phong tỏa kinh tế địch. Trong vùng căn cứ Đồng Tháp Mười, nhân dân có sáng kiến đào các con “Kênh kháng chiến” để ngăn chặn xe cơ giới của địch, đảm bảo giao thông vận tải và tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.

Về văn hóa, hệ thống trường học, Trạm Y tế, phòng đọc sách, phong trào văn nghệ, thông tin, tuyên truyền và cuộc vận động thực hiện nếp sống mới phát triển mạnh trong vùng căn cứ. Bên cạnh đó, ta cũng đẩy mạnh công tác đấu tranh chống văn hóa lai căng, vong bản, đồi trụy trong vùng địch tạm chiếm.

Nhìn chung, từ tháng 10/1945 đến đầu năm 1951, mặc dù phải trải qua nhiều gian khổ nhưng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Tiền Giang đã có sự phát triển vững chắc về mọi mặt, từng bước giành quyền chủ động trên chiến trường, đẩy địch vào thế bị động, phòng ngự.

Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến (1951-1952)

Vào đầu năm 1951, do tác động thuận lợi của phong trào cách mạng cả nước, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Tiền Giang có những bước phát triển mới.

Theo chủ trương của Trung ương, các tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và Tân An được hợp nhất lại thành tỉnh Mỹ Tho thuộc Phân liên khu miền Đông, nhằm tạo thế liên hoàn và sức mạnh cho các chiến trường kế cận nhau. Từ đó, chính quyền các cấp, nhất là cấp huyện, không ngừng được kiện toàn để đủ sức làm tròn nhiệm vụ chỉ huy cuộc kháng chiến ở các địa phương. Đội ngũ cán bộ được sắp xếp lại theo tinh thần gọn nhẹ và hướng về cơ sở. Mặt trận Liên Việt tỉnh được ra đời trên cơ sở thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt tỉnh. Qua đó, khối đại đoàn kết toàn dân được mở rộng và tăng cường, góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển, đánh bại âm mưu chia rẽ dân tộc và tôn giáo của địch.

Lực lượng vũ trang của tỉnh trưởng thành nhanh chóng. Cấp tỉnh có tiểu đoàn chủ lực (Tiểu đoàn 309), cấp huyện có đại đội địa phương quân. Ngoài ra, các đơn vị binh chủng đặc biệt cũng được thành lập như phân đội đặc công thủy, bộ, đại đội công binh, đội vũ trang tuyên truyền của các huyện và ban đô thị của các thị xã, thị trấn. Hệ thống trường quân sự từ tỉnh xuống huyện được củng cố, đảm bảo việc đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng chính trị và kiến thức quân sự cho cán bộ, chiến sĩ. Phong trào ” Rèn cán, chỉnh quân” được đẩy mạnh. Với tinh thần kiên quyết tiến công địch, lực lượng vũ trang tỉnh nhà đã tiến hành hàng loạt cuộc tiến công lớn và thu được những chiến công vang dội.

Trong tháng 5 và 6/1951, ta đánh chìm 19 tàu chiến, diệt 1.000 tên địch và bắt sống khoảng 1.000 tên. Ngày 04/9/1951, đặc công ta đột nhập vào thị trấn Cái Bè, thiêu hủy 1.000 tấn đạn, 164.000 lít xăng, 2 xe vận tải, diệt trên 100 tên địch. Ngày 17/6/1952, bộ đội tỉnh luồn sâu vào vùng địch tạm chiếm, tấn công Trường Hạ sĩ quan ở Bình Đức (Châu Thành), diệt và bắt sông 150 tên, thu 150 súng và hàng nghìn viên đạn,…

Bên cạnh đó, ta đã phát hiện và phá tan nhiều ổ gián điệp của địch cũng như làm thất bại âm mưu bạo loạn của bọn đội lốt đạo Cao Đài, Hòa Hảo và Đảng Đại Việt phản động.

Trên mặt trận kinh tế, nhờ có chính sách ruộng đất và chính sách thuế nông nghiệp đúng đắn, nên đời sống của nông dân từng bước được cải thiện. Qua đó, nông dân có điều kiện đóng góp nhân lực và vật lực ngày càng nhiều hơn cho kháng chiến. Phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Do đó, mặc dù cuối năm 1951, tỉnh bị lụt to, nhưng cuộc sống của nhân dân và bộ đội vẫn được ổn định. Nông dân còn được chính quyền cách mạng cho vay vốn để đầu tư cho sản xuất. Cuộc đấu tranh kinh tế với địch diễn ra rất quyết liệt, cuối cùng phần thắng đã thuộc về cách mạng. Nền kinh tế kháng chiến của tỉnh đã có sự phát triển vững chắc. Đặc biệt, nhân dân ở trong vùng địch tạm chiếm đã tích cực đóng góp lương thực, tiền bạc, thuốc men,… cho kháng chiến.

Về lĩnh vực văn hóa – xã hội, cuộc vận động thực hiện nếp sống mới ở vùng căn cứ tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào sáng tác văn học – nghệ thuật và học tập văn hóa trở nên rất sôi nổi.

Ở vùng địch tạm chiếm, các phong trào bãi khóa, bãi thị, bãi công, ủng hộ kháng chiến, chống bắt lính, binh vận,… ngày càng dâng cao làm cho hậu phương của địch thêm rối loạn.

Tiến lên giành quyền làm chủ trong Đông Xuân 1953-1954

Trước sự phát triển không ngừng của phong trào cách mạng, thực dân Pháp đã tiến hành nhiều biện pháp đối phó rất thâm độc và quyết liệt. Do đó, vào đầu năm 1953, cuộc chiến đấu của quân dân Tiền Giang gặp những khó khăn mới và thêm phức tạp. Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Tỉnh ủy, quân dân Tiền Giang đã anh dũng vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, kiên quyết thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên.

Chiến thắng mở đầu trong Đông Xuân 1953 – 1954 ở Tiền Giang là chiến thắng Kinh Bùi (Cái Bè) ngày 25/6/1953. Trong trận này, ta đã tiêu diệt và làm bị thương khoảng 100 tên địch, bắt sông 85 tên, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng và làm thất bại hoàn toàn cuộc càn quét có quy mô lớn của địch vào vùng căn cứ Đồng Tháp Mười; đồng thời mở ra cục diện mới trên chiến trường Tiền Giang: Quyền chủ động tiến công đã thuộc về ta.

Đến tháng 9/1953, quân dân Tiền Giang bước vào một cao điểm mới trong việc tiến công nhằm đẩy địch nhanh chóng lún sâu vào thế bị động phòng ngự, giành quyền làm chủ ở nông thôn.

– Ở huyện Chợ Gạo, ta tiêu diệt nhiều đồn bót của địch, giải phóng các xã An Thạnh Thủy, Bình Ninh, Hòa Định.

– Ở huyện Cái Bè, ta tổ chức chống càn ở Kênh Nguyễn Văn Tiếp, ngã năm Bà Tồn, tấn công các đồn Kinh Xéo, Thầy Triệu, Cầu Cháy, giải phóng Lộ 20.

– Ở huyện Cai Lậy, bộ đội và du kích tấn công các Đồn Cẩm Sơn và Chà Là (Thạnh Phú).

– Ở huyện Châu Thành, lực lượng vũ trang huyện đánh chiếm các Đồn Bình Trưng, Kim Sơn, Bàn Long, Cầu Chùa, Ông Táo, Bà Hào, Cây Me,…; vận động gần một đại đội lính ngụy trở về với nhân dân.

– Ở Gò Công, ta bức rút hàng loạt đồn bót của địch ở nhiều xã, giải phóng các xã Tăng Hòa, Vĩnh Hựu, Tân Thới, Phú Thạnh Đông.

Với khí thế tiến công vô cùng quyết liệt và mạnh mẽ, đến tháng 3/1954, quân dân tỉnh nhà đã đánh 631 trận, diệt 681 tên, bắt sống 508 tên, làm cho hàng nghìn binh lính ngụy rã ngũ, san bằng 78 đồn bót, phá hủy và tịch thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của địch…

Để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, từ tháng 4 đến tháng 7/1954, quân dân Tiền Giang tiếp tục mở hàng loạt cuộc tiến công giải phóng hầu hết vùng nông thôn trong tỉnh, làm chủ nhiều trục lộ giao thông quan trọng khiến cho chính quyền của địch ở xã, ấp bị tan rã hoàn toàn.

Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Tiền Giang đã giành được thắng lợi rực rỡ trong cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược. Có được thắng lợi đó là do sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của tỉnh Đảng bộ; nhân dân và lực lượng vũ trang kiên cường, đoàn kết chặt chẽ trong chiến đấu; chính quyền cách mạng vững mạnh; sự đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương trong cùng địa bàn chiến lược, cũng như sự đoàn kết giữa Tiền Giang với các nơi khác trong phạm vi cả nước.

Kết quả và ý nghĩa lịch sử

Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Tiền Giang đã giành được thắng lợi to lớn trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp cực kì anh dũng, đã bảo vệ và phát triển những thành quả vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là độc lập dân tộc và chính quyền dân chủ nhân dân, ghi thêm một trang chói lọi trong cuốn sử vàng chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nét nổi bật của quân dân Tiền Giang là đã tổ chức những trận giao thông chiến đầu tiên trong cả nước và giành được thắng lợi lớn. Ngoài ra, ta còn có sáng kiến xây dựng “Kênh kháng chiến” đáp ứng nhu cầu chiến đấu và sản xuất.

Trân trọng kính mời quý độc giả đón xem tiếp: Nhân dân Tiền Giang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975)

Nguồn: http://www.tiengiang.gov.vn