Bài 1: Những dòng nhật ký đầy chất “lửa” của khát vọng tuổi 20

Ký sự : Liệt sĩ – Nhà giáo Lê Thị Thiên và quyển “Nhật ký Thế hệ Hồ Chí Minh”

               Lời giới thiệu: Năm 2012, ông Huỳnh Văn Sáng (xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) đã trao cho Báo Bình Dương một gói kỷ vật của liệt sĩ gồm: một quyển nhật ký và 6 bức ảnh đã nằm sâu dưới lòng đất gần 50 năm.

            Sau khi đón nhận kỷ vật từ ông Sáng, Báo Bình Dương đã thực hiện loạt phóng sự “Kỷ vật từ lòng đất”, gây xúc động lòng người. Và từ quyển nhật ký quý giá này, Báo Bình Dương đã tìm ra nhân thân của liệt sĩ, nhà giáo Lê Thị Thiên, sinh năm 1945, quê ấp Bà Bèo, xã Mỹ Phước Tây, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

             Liệt sĩ, nhà giáo Lê Thị Thiên hy sinh năm 1966 trong một trận chiến đấu quyết liệt với kẻ thù khi còn rất trẻ. Quyển nhật ký của chị để lại có nội dung sục sôi lý tưởng cách mạng, một lòng hướng về Đảng, về Tổ quốc khiến người đọc xúc động và thán phục trước sự cống hiến, hy sinh anh dũng của chị. Tên chị được cả nước nhắc tới như một người anh hùng, thế hệ hôm nay và mai sau sẽ còn nhớ mãi về chị.

            Nhân kỷ niệm 38 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Ban biên tập Website Đài PT-TH Tiền Giang giới thiệu đến độc giả loạt ký sự : Liệt sĩ – Nhà giáo Lê Thị Thiên và quyển “ Nhật ký Thế hệ Hồ Chí Minh” nhằm tôn vinh về một thế hệ tuổi hai mươi xả thân cứu nước. 

Bài 1: Những dòng nhật ký đầy chất “lửa” của khát vọng tuổi 20

Cảm nhận về cuốn nhật ký “Thế hệ Hồ Chí Minh” của nữ nhà giáo-liệt sĩ Lê Thị Thiên, đồng chí Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước CHXHCNVN viết: “Tôi thật sự xúc động, tự hào và khâm phục khi đọc những dòng nhật ký này. Nhớ lại Nguyễn Văn Trỗi, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc… cũng lứa tuổi đôi mươi tràn đầy nhiệt huyết, họ đã sống, chiến đấu xả thân vì Tổ quốc, vì nhân dân…”

Được lấy lên từ lòng đất sau gần nửa thế kỷ, quyển nhật ký vỏn vẹn 35 trang giấy học trò và 6 bức ảnh là ký ức về đồng đội một thời cùng chiến đấu, hy sinh cho Tổ quốc giàu đẹp hôm nay. Trong bom đạn, trong những trận chống càn còn đầy mùi thuốc súng, những dòng nhật ký được tác giả ghi lại những suy nghĩ, những cảm xúc thể hiện ý chí chiến đấu kiên cường, khát vọng độc lập, tự do của một thế hệ thanh niên “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Những dòng chữ đầu tiên được viết vào tháng 12-1962 và trang cuối cùng của quyển nhật ký được viết vào ngày 20-10-1966, đây cũng là thời điểm mà nhà giáo Lê Thị Thiên đã trở thành bất tử cùng “chất lửa” trong quyển nhật ký…


“Thế hệ Hồ Chí Minh” là tiêu đề của quyển nhật ký mà tác giả ghi ở trang đầu. Tư tưởng xuyên suốt quyển nhật ký của nhà giáo-liệt sĩ Lê Thị Thiên là chất anh hùng cách mạng ở trách nhiệm của bản thân khi nghĩ về Tổ quốc thể hiện qua tình yêu quê nhà, gia đình và một lòng son sắt hướng về Đảng, về Bác Hồ. Chị xác định cho mình một lý tưởng và quyết tâm cao từ việc làm rất bình thường nhưng cao quý. Ở những trang đầu quyển nhật ký, chị Thiên (tự xưng là M.) viết: “Tháng 12-1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương. Tháng 5-1964: Được tin chuẩn bị đi dự lớp sư phạm ở R (họp ngày 30-5), rất phấn khởi về tư tưởng. Vì khi đi học sẽ có kiến thức, phục vụ cách mạng nhiều hơn. Ngày 4-6-1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. cố khắc sâu vào tư tưởng, cố gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con ngoan của ba má, đứa con ưu tú của Đảng. Ngày 22-6-1964: Rời gia đình lên đường học tập, M. có cảm nghĩ mới lạ. Khi học tập phải cố gắng với bổn phận của mình để xứng đáng là đứa con yêu của ba má, đứa em của các chị, đứa con của cách mạng, của Đảng.”


Tuy sống, học tập và chiến đấu trong điều kiện khắc nghiệt và ác liệt của chiến tranh nhưng chị Thiên vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo cho người thân và bà con quê nhà. “Được tin giặc càn bố xã nhà, M. cảm thấy buồn và lo lắng nhiều. Không biết bà con ở đây ra sao? Gia đình M. thế nào? Sốt ruột mong biết tin” (nhật ký ngày 16-7-1764). Và chị xác định “CĂM THÙ -> HÀNH ĐỘNG +CÔNG TÁC+HỌC TẬP TỐT”. Đối với chị nói riêng và các chiến sĩ nói chung, gia đình và người thân luôn là một hậu phương vững chắc cho họ trong cuộc chiến đấu với kẻ thù. Nhật ký ngày 9, 10, 11, 12-9-1966: “Mấy ngày nay sau khi được thư người anh (Quang), M. có mừng nhưng rồi lại cũng nghĩ nhiều đến gia đình. Nghĩ và nhớ, phải nói như vậy…”. “Được thư của người anh ruột thịt M. mừng biết bao! Đọc đi đọc lại mấy lần vẫn muốn đọc mãi. Qua những lời khuyên lơn, dặn dò. M. cố khắc ghi mãi mãi trong lòng… Anh ơi! Em sẽ cố gắng trui rèn bản thân nhiều hơn nữa để xứng đáng là đứa em gái của anh, đứa con yêu của ba má, một đảng viên ưu tú của Đảng” (nhật ký ngày 13-9-1966).

Khi đọc quyển nhật ký của nữ nhà giáo-liệt sĩ này, chúng tôi bắt gặp một cảm xúc giống nhau đến lạ thường giữa ý chí, hành động cùng lý tưởng cao đẹp của tuổi 20 lúc bấy giờ như của nữ bác sĩ-liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc là khát khao được cống hiến cho Tổ quốc. Chị Thiên viết: “Đêm 1-1-1965: Đêm nay được nghe chú Năm nói chuyện tình hình thời sự, M. rất phấn khởi. Quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày một nhiều hơn, vẻ vang hơn. M. phải nỗ lực trau dồi để tiến kịp bè bạn, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và dám hy sinh tính mạng khi Tổ quốc cần đến… M. phải soi rọi bản thân, phải cần học tập thêm, tư tưởng luôn hướng đến lý tưởng cộng sản, chân lý của cách mạng.

“Ta hãy nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn-vì Tổ quốc”.

–Tuổi còn trẻ-Đời còn dài-Vì Tổ quốc-Nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn-Gạt bỏ tư tưởng cá nhân-Học tập trau chuốt nhiều hơn, tốt hơn…”

Chị đặt ra mục tiêu cho mình “Chiến sĩ giết nhiều giặc, người giáo viên trên trận tuyến văn hóa cần nỗ lực nhiều hơn với vai trò, nhiệm vụ của mình mà Đảng, nhân dân đã giao cho. Ngày 8-1-1966: Tình hình động, giặc càn vào C2. Đây là lần đầu M. có nhiều ý nghĩ mới: làm công tác gì cho phù hợp với tình hình giai đoạn hiện tại…?” Chị luôn khao khát được hoạt động, được cống hiến ngay cả những lúc khó khăn, gian khổ nhất của cuộc chiến đấu, “Một tuần qua là thời gian lộ chết (nằm hầm). Rất mong tình hình trở lại bình thường để tiếp tục công tác. Không làm được gì, M. buồn nhiều…”

Một chi tiết khác trong quyển nhật ký đã minh chứng thêm ý chí kiên định vững vàng của một chiến sĩ, một đảng viên khi chiến đấu trong những ngày chiến tranh ác liệt. Điều suy nghĩ sâu sắc về tư tưởng cách mạng của chị là “chính trị là thống soái, nghiệp vụ là trung tâm, văn hóa là cơ sở” phải là người học trò nhỏ của quần chúng…” (nhật ký ngày 27-2-1965). Từ đó, chị gác bỏ tình cảm riêng tư là tình yêu đôi lứa để luôn học hỏi, tự rèn luyện mình, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng cho đến lúc ngã xuống. Về tình cảm riêng tư, chị thổ lộ: “Có người đến tìm hiểu và hỏi ý kiến muốn xây dựng cùng M. nhưng ý nghĩ, tư tưởng chưa nghĩ tới. Cho nên M. không thể nhận lời, không thể vừa lòng người được” (nhật ký ngày 20-10-1965).

Điều đáng khâm phục là cách nén đau thương và biến thành lòng căm thù để tiếp tục chiến đấu khi chị biết tin “người ấy” của mình đã bị địch bắt trong cuộc càn quét ác liệt. Nhật ký ngày 21-1-1966, chị viết: “Đến gặp anh C. để bàn công tác. Một tin làm M. xúc động vô cùng: người thân (10T) đã rơi vào tay giặc hôm 8-1 (ngày đầu địch càn vào vào bắc C2). M. buồn và suy nghĩ nhiều. Dù rằng đối với M. chưa có gì là kỷ niệm sâu sắc, nhưng trong lòng ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng ra, còn có tình yêu thương đồng chí, bước đầu của tình cảm riêng tư. Đó là tình đồng chí, là người bạn và coi là người…lý tưởng của M.” Cách để chị vượt qua mất mát này là so sánh tình cảm của mình với tấm gương của anh Nguyễn Văn Trỗi: “M. lại nghĩ đến tình yêu cao thượng của anh Trỗi-chị Quyên. Đôi vợ chồng vừa mới cưới nhau 20 ngày, mới sống chung thời gian ít như vậy”. Biến đau thương thành hành động, giờ đây M. phải làm tốt mọi công tác được giao, là cơ sở chuẩn bị cho công tác mai sau (giáo dục)…” Những dòng nhật ký ngắn thoáng qua về riêng tư của bản thân chị trong quyển nhật ký 35 trang khẳng định lý tưởng sống, chiến đấu cao đẹp của chị là “Khi Tổ quốc cần, họ phải biết xa nhau” (Nguyễn Mỹ).

Đặc biệt hơn hết, quyển nhật ký gây ấn tượng mạnh với độc giả bởi vẻ giản dị, chân thực trong từng câu chữ nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nét lấp lánh những hy vọng của tác giả trong cuộc chiến khốc liệt năm xưa. Bên cạnh cuộc chiến với kẻ địch, chị cũng như đồng đội còn đối phó với bệnh tật trong điều kiện thiếu thốn lương thực và thuốc men nhưng vẫn tự tin, lạc quan tin vào chiến thắng tất yếu của cuộc kháng chiến giành độc lập cho dân tộc. Nhật ký ngày 22-6-1966, chị Thiên viết: “Bữa nay đi xem bệnh. Trong người thấy uể oải, mệt mỏi lắm. Từ lâu M.vẫn biết bệnh của mình, ngày nào người cũng không được khỏe, làm việc được đó là sự cố gắng vươn lên. Nay có điều kiện, có thuốc men, M. nên giữ tư tưởng, tư tưởng thật thoải mái. Làm việc thế nào sau khi chữa bệnh, M. lại đến chiến trường đảm bảo công tác, có sức khỏe, vui tươi, không lề rề, tâm trạng trở lại bình thường.” Đến ngày 10-10-1966 (10 ngày trước khi chị Thiên hy sinh), những dòng nhật ký của chị ghi lại ý chí quyết tâm của bản thân khi sắp tới ngày kỷ niệm, ngày giỗ thứ hai của anh Trỗi “Để thiết thực kỷ niệm ngày hy sinh anh dũng của anh, M. phải làm gì? Trong công tác: Đối với kẻ thù? Đối với đồng chí? Đối với bản thân?… Hãy đi lên để tìm chân lý sống!…”.

 

Và những câu thơ trong 1/3 bài thơ có tên “Nói đi em” đề gửi tặng em H., người em cùng quê hương, mà chị Thiên cũng làm trong ngày 17-10-1966, kỷ niệm 2 năm ngày anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi hy sinh, thể hiện niềm tin tất thắng:

     “…Hãy nghĩ đến ngày mai tươi sáng

     Miền Nam ta giải phóng tự do

     Gia đình sum họp một nhà

     Cùng nhau vui hát bài ca “Thanh bình”…”

…Sau khi đọc quyển nhật ký của nhà giáo-liệt sĩ Lê Thị Thiên, đồng chí Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước CHXHCN VN viết: “Tôi học tập nhiều ở những con người bình dị mà cao cả; tâm hồn của họ luôn trẻ trung trong sáng; lý tưởng cách mạng như ngọn đuốc rực cháy trong tim gan; họ hết lòng yêu thương đồng chí, đồng bào; tính tự giác, tự phê bình, tự chịu trách nhiệm nghiêm túc, sâu sắc…”