Dấu ấn trong quan hệ Việt Nam- Hoa Kỳ

Kể từ sau chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (7/2013) với việc xác lập khuôn khổ quan hệ “Đối tác toàn diện”, quan hệ hai nước đạt những tiến triển mới, thực chất trên nhiều lĩnh vực, cả về song và đa phương; sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau gia tăng.

Về chính trị – ngoại giao

Kể từ sau chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (7/2013) với việc xác lập khuôn khổ quan hệ “Đối tác toàn diện”, quan hệ hai nước đạt những tiến triển mới, thực chất trên nhiều lĩnh vực, cả về song và đa phương; sự quan tâm và hiểu biết lẫn nhau gia tăng.

Phía Hoa Kỳ cử nhiều đoàn thăm Việt Nam, nổi bật là: Đoàn Cựu Tổng thống Bill Clinton (7/2014); Đoàn nghị sĩ do Lãnh tụ phe thiểu số tại Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi dẫn đầu (3/2015); Đoàn Thượng nghị sĩ J.McCain (5/2015), Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Mỹ Antony Blinken (5/2015), Bộ trưởng Quốc phòng Ahston Carter (6/2015).

Về phía Việt Nam thăm Hoa Kỳ có: Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (7/2013); Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị (7/2014); Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (9/2014); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh (10/2014); Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang (3/2015), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân (4/2015).

Việt Nam và Hoa Kỳ tiếp tục tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin, duy trì các cơ chế đối thoại quan trọng như Đối thoại Nhân quyền, Đối thoại chính trị-an ninh-quốc phòng, Đối thoại châu Á-Thái Bình Dương… cũng như trao đổi điện đàm về các vấn đề song phương và khu vực. Hai bên cũng từng bước thiết lập quan hệ Đảng giữa hai nước, trong đó có việc đẩy mạnh các cuộc trao đổi, tiếp xúc giữa các cơ quan Đảng.

Về kinh tế

Từ năm 2005, Hoa Kỳ đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, đạt 36,6 tỷ USD trong năm 2014. Về thương mại, kim ngạch thương mại hai chiều tăng trưởng liên tục ở mức hơn 20% trong 3 năm gần đây, trong đó ta luôn xuất siêu. Tuy nhiên, hai bên vẫn còn một số vướng mắc, như các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp… Đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) tiếp tục được đẩy mạnh. Về đầu tư,  đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam vẫn chưa có nhiều tiến bộ, tiếp tục duy trì ở mức gần 11 tỷ USD, xếp thứ 7 trong nhiều năm qua.

Về an ninh – quốc phòng

Hoa Kỳ chú trọng thúc đẩy quan hệ an ninh – quốc phòng, xem đây là lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt sau khi hai nước xác lập quan hệ Đối tác toàn diện (7/2013). Trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter (6/2015), hai Bộ Quốc phòng đã ký kết Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ.

Thời gian qua, phía Hoa Kỳ tiếp tục cử nhiều đoàn quan trọng thăm Việt Nam, nổi bật có Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Liên quân Martin Dempsey (8/2014), Bộ trưởng Hải quân Ray Mabus và tàu chiến Hoa Kỳ (4/2015), Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter (29/5-1/6)… Hai bên đã ký Thư triển khai gói hỗ trợ 18 triệu USD (tháng 8/2014) dành cho cảnh sát biển, Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng Việt-Hoa Kỳ (6/2015) trên cơ sở MOU về hợp tác quốc phòng song phương (9/2011). Tháng 10/2014, Hoa Kỳ tuyên bố dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Hai bên duy trì đối thoại chính sách quốc phòng lần thứ 4 tại Washington DC (10/2013); Đối thoại Chính trị – An ninh – Quốc phòng lần thứ 7 tại Hà Nội (1/2015).

Về an ninh, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang đã thăm chính thức Hoa Kỳ (3/2015). Ngày 21/5/2014, Việt Nam cũng đã tuyên bố tham gia Sáng kiến An ninh chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt (PSI). Hai bên đang trao đổi để ký kết một số thỏa thuận nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh và thực thi pháp luật.

Về khoa học – công nghệ

Hợp tác có nhiều điểm mới như việc ký và thông qua Hiệp định hợp tác sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định 123, tháng 5/2014); bước đầu hợp tác về khoảng không vũ trụ: NASA và Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã ký Tuyên bố ý định chung (Joint Statement of Intent) về trao đổi hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu không gian vũ trụ.

Về giáo dục, du lịch, hợp tác địa phương

Hợp tác đang trên đà phát triển, năm 2014 có hơn 16.000 sinh viên, thực tập sinh Việt Nam đang theo học tại Hoa Kỳ, đứng đầu trong số các nước Đông Nam Á, đứng thứ 8 trong số các nước có nhiều sinh viên học tập tại Hoa Kỳ (năm 2006 đứng thứ 20). Việt Nam đã cho phép đầu tư Dự án thành lập Đại học mô hình Hoa Kỳ ở Việt Nam (Đại học Fulbright). Hàng năm Hoa Kỳ cấp học bổng cho nghiên cứu sinh Việt Nam qua các chương trình học bổng như Fulbright và Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF). Năm 2014, lượng khách du lịch Hoa Kỳ đến Việt Nam đạt hơn 400 nghìn lượt, xếp thứ 4 sau Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản với doanh số khoảng 500 triệu USD (theo số liệu của Amcham tại Việt Nam, 3/2015).

Nhiều địa phương của Việt Nam đã thiết lập quan hệ với các thành phố, bang của Hoa Kỳ, như TPHCM và TP San Francisco (10/4/1995), TP Hải Phòng và TP Seattle (6/1996), Cảng Sài Gòn và Cảng Los Angeles (20/7/1999), TP Huế và TP New Heaven (1997), TP Huế và TP Honolulu, bang Hawaii (5/5/2001), TP Đà Nẵng và TP Oakland, bang California (22/6/2005), TP Đà Nẵng và TP Pittsburgh, bang Pennsylvania (02/12/2008), Tỉnh Ninh Thuận và bang Maryland (10/6/2011), TP Cần Thơ và TP Riverside của bang California (1/2015)…

Về hợp tác y tế, môi trường, nhân đạo

Phía Hoa Kỳ tiếp tục quan tâm tới các vấn đề này. Ngày 17/6/2013, hai bên đã ký Hiệp định mới về Hợp tác y tế và khoa học y học. Việt Nam đã tiếp nhận 67,9 triệu USD tiền mặt và 25,5 triệu USD hiện vật từ Chương trình hỗ trợ khẩn cấp về phòng chống HIV/AIDS (PEPFAR). Về giải quyết hậu quả chiến tranh, trong Tuyên bố chung Cấp cao tháng 7/2013, lần đầu tiên Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ cho người tàn tật bất kể nguyên nhân gì. Về chất độc da cam/dioxin: Hoa Kỳ thông qua 84 triệu USD cho dự án tẩy độc sân bay Đà Nẵng và 11 triệu USD trợ giúp về y tế cho người khuyết tật, trong đó có nạn nhân chất độc da cam/dioxin (giai đoạn 2014-2016). Tháng 12/2013, USAID thông qua dự án đánh giá môi trường ô nhiễm tại Biên Hòa. Về bom mìn: Ngày 16/12/2013, hai nước ký MOU về hợp tác khắc phục hậu quả bom mìn. Tổng giá trị Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam về bom mìn thông qua các tổ chức phi Chính phủ từ 1993-2014 trị giá 94 triệu USD; năm 2015: 10 triệu USD.

Hợp tác về các vấn đề khu vực và đa phương

Hai bên hợp tác tốt tại các diễn đàn khu vực như APEC, ARF, ADMM+, LMI, EAS; phối hợp về chương trình nghị sự, nhất là trong các cuộc thảo luận liên quan đến an ninh hàng hải, củng cố đoàn kết ASEAN, đề cao vai trò trung tâm của ASEAN, nâng cấp quan hệ Hoa Kỳ – ASEAN…
Trước tình hình căng thẳng ở Biển Đông do Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (5/2014), phía Hoa Kỳ ở nhiều cấp của Chính quyền và Quốc hội đã nêu quan ngại về tình hình Biển Đông, phê phán hành động khiêu khích của Trung Quốc, đề nghị các bên giải quyết hòa bình tranh chấp, không sử dụng vũ lực và tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982, Tuyên bố về ứng xử trên Biển Đông (DOC) 2002; Quốc hội Hoa Kỳ thông qua 2 Nghị quyết về Biển Đông và Biển Hoa Đông. Hoa Kỳ cũng đưa ra một số biện pháp làm dịu tình hình (sáng kiến “đông kết” – giữ nguyên trạng ở Biển Đông); tăng cường hợp tác với 4 nước ASEAN có “tuyên bố chủ quyền” ở Trường Sa (Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei).

Về vấn đề dân chủ, nhân quyền

Đây là vấn đề hai bên còn khác biệt. Tuy nhiên, hai bên vẫn tiếp tục duy trì đối thoại hằng năm về nhân quyền, gần đây nhất vòng 19 diễn ra ở Hà Nội tháng 5/2015. Phía Hoa Kỳ đã ghi nhận những tiến bộ nhất định của Việt Nam trong vấn đề này./.

Nguồn Chính phủ