Khai mạc Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất – năm 2011

 

        Tối 12-11, tại Khu du lịch phía nam hồ Núi Cốc (tỉnh Thái Nguyên), UBND tỉnh Thái Nguyên, Hiệp hội chè Việt Nam tổ chức lễ khai mạc chính thức Liên hoan Trà quốc tế lần thứ nhất - năm 2011. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự và phát biểu ý kiến. Ðến dự có các đồng chí: nguyên Chủ tịch nước Trần Ðức Lương; đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Bí thư T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch Quốc hội; lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố trong cả nước cùng đông đảo nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.

Phát biểu ý kiến khai mạc Liên hoan, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên Dương Ngọc Long cho biết: Với các hoạt động giới thiệu, quảng bá về tiềm năng sản xuất trà, các làng nghề trà, hội thảo quốc tế về cây chè và các sản phẩm trà, triển lãm giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam và Thái Nguyên, thi “Người đẹp xứ Trà”, Lễ hội văn hóa trà và biểu diễn nghệ thuật dân tộc, carnaval “Trà Thái trong tâm hồn người Việt”, Liên hoan có sự tham gia của 30 doanh nghiệp chè của Hiệp hội chè Việt Nam, 25 doanh nghiệp, HTX kinh doanh chè, 50 làng nghề truyền thống của Thái Nguyên cùng nhiều nhà sản xuất chè trong và ngoài nước. Các nhà trồng, sản xuất chè đem đến Liên hoan những sản phẩm độc đáo nhất, trình diễn các phương thức sản xuất chè truyền thống, giới thiệu tinh hoa văn hóa trà và văn hóa dân tộc truyền thống.

Phát biểu ý kiến tại lễ khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng biểu dương những thành tựu to lớn mà ngành chè Việt Nam đã đạt được và sự nỗ lực phấn đấu của các bộ, ngành, các địa phương trồng chè, các nhà khoa học, các doanh nghiệp và nhất là tinh thần vượt khó, cần cù, sáng tạo của hàng triệu nông dân, lao động - những người trực tiếp trồng, chế biến và kinh doanh chè Việt Nam. Cây chè đã được trồng ở Việt Nam từ lâu đời, hiện nay đã được phát triển ở 34 tỉnh, thành phố trong cả nước, với diện tích hơn 130 nghìn ha. Nhiều vùng sản xuất chè tập trung, gắn với công nghiệp chế biến, với các sản phẩm trà nổi tiếng đã được hình thành ở Thái Nguyên, Lâm Ðồng, Phú Thọ, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang, Sơn La… Sản phẩm trà ngày càng đa dạng, chất lượng được nâng lên, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tới 110 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2010, Việt Nam xuất khẩu hơn 135 nghìn tấn chè, kim ngạch đạt gần 200 triệu USD. So 20 năm trước đây, diện tích gieo trồng chè tăng gần 2,5 lần, năng suất gấp 2,2 lần, sản lượng gấp sáu lần và kim ngạch xuất khẩu gấp tám lần. Việt Nam đã đứng thứ 5 trên thế giới về sản lượng sản xuất và xuất khẩu chè…

Thủ tướng nhấn mạnh: Cùng với việc phát triển chè theo quy hoạch, phải đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trong sản xuất; bố trí lại cơ cấu giống chè phù hợp từng vùng và thị trường để nâng cao năng suất, chất lượng chè, phấn đấu đưa sản lượng chè búp tươi đạt hơn một triệu tấn/năm. Cần khẩn trương cơ cấu lại và đa dạng hóa sản phẩm trà; tập trung đầu tư mới và cải tạo nâng cấp các nhà máy chế biến theo hướng hiện đại, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Phải chú trọng phát triển các loại trà đặc sản truyền thống, các làng nghề gắn với du lịch, tôn vinh các nghệ nhân. Tiếp tục tổ chức lại sản xuất theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa người trồng chè với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển ổn định; tăng thu nhập cho người làm chè. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người trồng chè, các doanh nghiệp nâng cao nhận thức, thực hiện tốt các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với ngành chè, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Tăng cường xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường tiêu thụ, từng bước khẳng định thương hiệu chè Việt.

Ðối với Thái Nguyên, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mong Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh phát huy truyền thống tốt đẹp và những thành tựu to lớn đã đạt được, nỗ lực hơn nữa, quyết tâm hơn nữa, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đề ra, phấn đấu xây dựng Thái Nguyên trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020, xứng đáng là một trung tâm kinh tế, văn hóa, y tế, giáo dục của vùng trung du miền núi Bắc Bộ.