Nguyễn Thị Thập: Người con ưu tú của quê hương Tiền Giang

Bà Nguyễn Thị Thập (1908 – 1996), người con ưu tú của quê hương Tiền Giang, đã trọn đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Bà đã trải qua gần 20 năm đảm đương cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và cũng từng ấy năm là Phó Chủ tịch Quốc hội.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng, bà đã vinh dự được trao tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và Huân chương Sao vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta; đồng thời được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” và nhiều phần thưởng cao quý khác.

 

Bà Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, đông con, có truyền thống yêu nước và đấu tranh chống cường quyền áp bức tại xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (trước là tỉnh Mỹ Tho).

Kế thừa truyền thống của gia đình, của quê hương, cùng với sự giác ngộ cách mạng từ rất sớm đã hun đúc nên phẩm chất đảm đang, kiên cường, bất khuất nơi bà Nguyễn Thị Thập.

Nhắc đến bà, mọi người luôn nhớ đến cuộc đời của một nữ chiến sĩ cách mạng không quản ngại gian khổ, hy sinh, luôn nung nấu ước mơ cháy bỏng là góp phần cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ thời niên thiếu, bà đã trải qua cuộc sống cơ cực và chứng kiến nỗi thống khổ của những gia đình nông dân dưới 2 tầng áp bức của thực dân và phong kiến thời bấy giờ, đã thôi thúc bà sớm tìm đến các tổ chức yêu nước. Năm 1928, bà Nguyễn Thị Thập tham gia Nông hội đỏ tại địa phương, với nhiệm vụ thông tin liên lạc.

3 năm sau, bà thoát ly gia đình, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, thâm nhập cuộc sống công nhân, thợ thuyền, những người lao động nghèo khổ để tuyên truyền giác ngộ, xây dựng cơ sở cách mạng ở thành phố Sài Gòn và các tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre và bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Từ đây bà lấy bí danh là Mười Thập.

Với ý thức trách nhiệm của người cộng sản đối với nhân dân và Tổ quốc, ngoài việc hoàn thành các nhiệm vụ được Đảng phân công, bà luôn nỗ lực học tập và rèn luyện ý chí cách mạng. Tháng 4-1935, bà được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam kỳ. Sau đó không lâu bà bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn Sài Gòn. Sự tù đày, tra tấn dã man của kẻ thù vẫn không làm lay chuyển được ý chí gang thép của người nữ chiến sĩ cộng sản.

Trong những năm 1935 – 1936, ở nước Pháp, Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền, chế độ dân chủ được mở rộng, sự hà khắc đối với các nước thuộc địa cũng được nới lỏng hơn, bà và một số tù nhân chính trị chưa thành án được trả tự do.

Theo sự điều động của cấp trên, bà trở về quê hương tiếp tục tuyên truyền, giáo dục xóa bỏ hủ tục mê tín dị đoan, lề thói lạc hậu ở nông thôn, tuyên truyền lý tưởng cách mạng, qua đó xây dựng cơ sở cách mạng ở khắp các tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sa Đéc…

Ở Mỹ Tho, bà cùng với ông Nguyễn Văn Cảnh (Tám Cảnh – anh ruột) và ông Lê Văn Giác (một người bạn thân, sau trở thành chồng bà, là Tỉnh ủy viên Mỹ Tho) thường xuyên tập hợp anh chị em thanh niên trong xã Long Hưng để tuyên truyền lý tưởng cách mạng, vạch tội ác thực dân Pháp, bọn cường hào ác bá và gầy dựng, phát triển lực lượng cách mạng. Xã Long Hưng trở thành nơi lực lượng cách mạng phát triển mạnh nhất của tỉnh Mỹ Tho.

Năm 1937, bà lãnh đạo nhân dân Long Hưng đấu tranh chống thuế thân. Cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt, địch tập trung đàn áp, bà bị chúng bắt giam 6 tháng tại khám đường Mỹ Tho. Ra tù, bà tiếp tục công tác vận động quần chúng, củng cố và phát triển cơ sở. Năm này, ông Lê Văn Giác được thả khỏi nhà tù Côn Đảo, 2 người kết hôn, sau đó không lâu ông Lê Văn Giác bị địch bắt trở lại và đày biệt xứ ở Bạc Liêu.

Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân Pháp ra sức vơ vét nhân lực, tài lực phục vụ chiến tranh. Sưu cao thuế nặng, vật giá leo thang, nhân dân ngày càng khốn khổ. Ở Mỹ Tho, chúng cấm các tổ chức quần chúng hoạt động, ruồng bắt thanh niên đưa sang Pháp hoặc đưa ra biên giới đánh quân Xiêm. Nhân dân vô cùng căm tức bọn thực dân và tay sai, chỉ mong có cuộc nổi dậy.

Nắm được nguyện vọng của quần chúng, bà ngày đêm tuyên truyền, vận động quần chúng ủng hộ cách mạng và tham gia nổi dậy. Truyền đơn của Đảng kêu gọi đồng bào đoàn kết dưới ngọn cờ của Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương đứng lên cứu lấy Tổ quốc, được bà chuyển từ tay người này đến người khác, từ xóm ấp này đến xóm ấp khác.

Trong một lần rải truyền đơn, quyên góp lương thực, tài chính để hoạt động và mua vũ khí bà bị địch bắt. Khi biết sự việc này, hàng trăm người dân xã Long Hưng tay mác, tay giáo xông tới đòi bắt tên cò mật thám Trần Chánh, tên này và đám lính bỏ chạy, bà được giải thoát.

Năm 1940, địch ra sức khủng bố, nhân dân đòi bạo động đánh Pháp. Tỉnh ủy Mỹ Tho quyết định lấy rừng Ba U làm căn cứ, tổ chức nhiều cuộc hội nghị ở nhiều nơi khác nhau trong tỉnh bàn việc chuẩn bị khởi nghĩa ở Mỹ Tho, thành lập Ủy ban khởi nghĩa. Bà được giao nhiệm vụ phụ trách lực lượng vũ trang của tỉnh.

Từ tháng 8 đến tháng 11-1940, bà tích cực tổ chức các địa phương trong tỉnh luyện tập, chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa lớn. Khi có lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, lực lượng vũ trang và nhân dân Mỹ Tho làm một cuộc “tiến công lên trời”, cờ đỏ sao vàng (sau này trở thành Quốc kỳ của nước ta) lần đầu tiên được xuất hiện ở đình Long Hưng – nơi được chọn làm tổng hành dinh cách mạng của cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Tho.

Nhà thờ bà Nguyễn Thị Thập trong Khu di tích Nam kỳ khởi nghĩa (xã Long Hưng, huyện Châu Thành).  Ảnh: HẠNH NGA

 Nhà thờ bà Nguyễn Thị Thập trong Khu di tích Nam kỳ khởi nghĩa (xã Long Hưng, huyện Châu Thành). Ảnh: Hạnh Nga

Cuộc khởi nghĩa thành lập được chính quyền công – nông, tuy là chính quyền tự quản và tồn tại không lâu do thực dân Pháp trở lại đàn áp khốc liệt, nhưng chính quyền đã thực thi chính sách đại đoàn kết dân tộc, khắc sâu dấu ấn đặc biệt trong ký ức của người dân Mỹ Tho và hình ảnh người đảng viên Nguyễn Thị Thập bụng mang dạ chửa gần ngày sinh nở vẫn thắt khăn nịt bụng chỉ huy lực lượng vũ trang xông vào chiếm đồn bót, trương biểu ngữ, trương cờ. Bị kẻ thù tập nã, niêm yết khắp nơi, kèm nhiều tiền thưởng cho ai bắt được bà, nhưng bà đã được cán bộ, nhân dân Mỹ Tho và Nam bộ yêu thương, che chở an toàn.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, địch ra tay đàn áp nhân dân, ruồng bố, bắt giam hàng ngàn người yêu nước. Chồng bà – ông Lê Văn Giác một lần nữa bị địch bắt và bị xử tử hình. Nén đau thương, bà trở lại quê nhà Long Hưng – cái nôi của cuộc khởi nghĩa để gầy dựng lại cơ sở cách mạng và tiếp tục xây dựng cơ sở quần chúng ở các tỉnh miền Tây Nam bộ.

Cuối năm 1944, bà cùng với nhiều cán bộ trong tỉnh Mỹ Tho và các tỉnh bạn xúc tiến việc khôi phục lại Tỉnh ủy Mỹ Tho và Xứ ủy Nam kỳ (tỉnh Mỹ Tho lúc bấy giờ có 2 Tỉnh ủy: Tỉnh ủy Tiền Phong và Tỉnh ủy Giải Phóng; Xứ ủy Nam kỳ cũng có 2 Xứ ủy: Xứ ủy Tiền Phong và Xứ ủy Giải Phóng).

Đầu tháng 8-1945, bà được cử đi dự Đại hội Quốc dân, họp ở Khu căn cứ  Tân Trào (Tuyên Quang). Do đường sá xa xôi nên khi tới Hà Nội thì Đại hội đã kết thúc và Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành được thắng lợi. Bà trở lại thủ đô gặp Trung ương Đảng và được Tổng Bí thư Trường Chinh giao trọng trách cùng với phái viên Trung ương tiến hành việc thống nhất Đảng bộ Nam bộ.

Cuối tháng 8-1945, bà về đến Mỹ Tho, thực hiện thành công việc thống nhất tổ chức Đảng bộ Nam bộ. Trong Cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6-1-1946, bà Nguyễn Thị Thập trúng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Mỹ Tho, được dự cuộc họp Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tháng 11-1946, bà trở về Nam bộ với nhiệm vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó là tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng và củng cố Đảng bộ Nam bộ vững mạnh. Với tấm lòng trong sáng, vô tư, vì sự nghiệp cao cả của Đảng, bà đã đề ra nhiều biện pháp hợp tình hợp lý trong việc chấn chỉnh tổ chức Đảng ở Nam bộ, kết quả là Xứ ủy Nam bộ và Tỉnh ủy các tỉnh được củng cố về nhiều mặt.

Từ năm 1947 đến năm 1952 bà là Hội trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc Nam bộ, là một tổ chức quy tụ và phát huy sức mạnh của hàng triệu phụ nữ Nam bộ. Với nhiều phong trào cứu quốc, phụ nữ Nam bộ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Năm 1953 bà được Trung ương điều ra Việt Bắc. Sau khi Hiệp định Genève (ngày 20-7-1954) được ký kết, bà được cử vào miền Nam phổ biến việc thi hành Hiệp định đình chiến.

Năm 1954, sau bao năm xa cách, mẹ con bà Nguyễn Thị Thập mới được đoàn tụ bên nhau. Thế nhưng, nỗi đau lại ập tới, tháng 5-1954, người con trai lớn, Xã đội trưởng liên xã Long Hưng – Long Hòa đã quả cảm hy sinh trong một trận càn của giặc.

Người con trai thứ hai học chuyên ngành Điện ảnh ở Cộng hòa Dân chủ Đức, tốt nghiệp về nước, xin vào chiến đấu tại chiến trường Đông Nam bộ và đã anh dũng ngã xuống trên quê hương giàu truyền thống cách mạng như người cha và anh trai mình. Bà đã biến đau thương thành sức mạnh, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Năm 1955, bà trở ra miền Bắc theo diện cán bộ miền Nam tập kết. Bà được bầu làm Hội trưởng rồi Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ kiêm Trưởng Ban Phụ vận Trung ương. Bà cùng với tập thể lãnh đạo của Trung ương Hội đề ra nhiều chủ trương rất sáng tạo, dấy lên nhiều phong trào thi đua sôi nổi của phụ nữ cả nước trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam, đặc biệt phong trào “Phụ nữ 3 đảm đang” có sức lôi cuốn toàn thể phụ nữ từ thành thị đến nông thôn hăng hái tham gia để chồng con yên tâm chiến đấu ngoài mặt trận.

Nhờ vậy hậu phương lớn miền Bắc đã đáp ứng cho tiền tuyến lớn miền Nam theo đúng tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Với thành tích đạt được, phong trào “Phụ nữ 3 đảm đang” được Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ tặng danh hiệu “Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảm đang chống Mỹ, cứu nước”. Phong trào còn lan tỏa đến nhiều nước trên thế giới. Ngày ấy, ở nước Cuba đã tổ chức học tập phong trào “Phụ nữ 3 đảm đang” của Việt Nam, có 6 vạn phụ nữ Cuba đăng ký thực hiện.

Với cương vị là Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, đại biểu Quốc hội, bà luôn dành nhiều thời gian đến với các cấp Hội tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của chị em để kiến nghị với Đảng và Nhà nước xây dựng bộ luật về hôn nhân và gia đình cho phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa.

Bà rất tâm huyết trong công tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ nữ, đưa phong trào phụ nữ ngày càng phát triển vững mạnh.

Bên cạnh những chức vụ quan trọng kể trên, bà còn được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ Khóa II đến Khóa IV (1951 – 1981), Phó Chủ tịch Quốc hội từ Khóa II đến Khóa VI (1960 – 1980). Năm 1996, sau cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, bà đã từ trần tại TP. Hồ Chí  Minh, thọ 88 tuổi và yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh Tiền Giang.

Qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, lúc ở miền Nam cũng như khi ra miền Bắc, bà luôn tỏ rõ là một đảng viên trung kiên, một lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Trong Điếu văn do Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đọc tại lễ tang của bà, đã nhấn mạnh: “Gần 70 năm tham gia cách mạng, hơn 60 năm chiến đấu liên tục trong đội ngũ của Đảng, được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách, bà là một cán bộ có nhiều cống hiến xuất sắc đối với phong trào cách mạng, phong trào phụ nữ Việt Nam và phong trào phụ nữ thế giới. Bà là một cán bộ gương mẫu với nhiều phẩm chất cao quý: Trung thực, thẳng thắn, sống giản dị, tiết kiệm, thương yêu, gần gũi đồng chí, đồng bào”.

Cuộc đời kiên trung, anh dũng của bà Nguyễn Thị Thập qua 2 cuộc chiến đấu chống quân xâm lược cùng những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước đã trở thành tấm gương sáng ngời để các thế hệ học tập, noi theo. Bà mãi mãi là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang. Chúng ta sẽ tiếp tục phát huy truyền thống Nam kỳ khởi nghĩa, Ấp Bắc oai hùng… để xây dựng Tiền Giang ngày càng phồn vinh.

Lược ghi tham luận của
TS. TRẦN THẾ NGỌC
(Nguyên Ủy viên BCH Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tiền Giang)