Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Bờ – Một cán bộ y tế trung kiên

Nguyễn Thị Bờ bí danh Hai Liêm, tên thường gọi Hai Bờ, sinh năm 1926 tại làng Phú Thạnh Đông, tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công (nay là xã Phú Đông, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống đấu tranh bất khuất.

Untitled 2

Chân dung Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Bờ. Ảnh Tư liệu

Năm 1949, bà tham gia cách mạng với nhiệm vụ giao liên hợp pháp, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã, đã có nhiều đóng góp trong việc vận động chị em phụ nữ gầy dựng phong trào ở cơ sở, mưu trí, dũng cảm lọt qua mắt giặc, đưa công văn, chỉ thị của Đảng đến nơi an toàn, kịp lúc.

Năm 1950, mặc dù mong muốn được trực tiếp chiến đấu chống kẻ thù, nhưng khi được cử đi học lớp “Cô đỡ” ở Đồng Tháp Mười, bà đã khắc phục khó khăn, gởi con nhỏ cho gia đình chăm sóc, chấp hành sự phân công của tổ chức, lên đường nhập học đúng thời gian quy định.

Sau khi hoàn thành khóa học, bà trở về địa phương tiếp tục công tác ở Hội Phụ nữ, vừa giúp chị em trong việc sinh đẻ, vừa lấy nghề “cô đỡ” làm điều kiện tiếp xúc với quần chúng để vận động xây dựng cơ sở cách mạng và giác ngộ, động viên nhiều gia đình cho con em tham gia cách mạng.

Nhờ đó, năm 1951-1952, xã Phú Thạnh Đông có hơn 100 hội viên Hội Phụ nữ. Đây là một trong những xã có phong trào phụ nữ mạnh nhất huyện. Năm 1951, bà được kết nạp vào Đảng. Năm 1952, bà là Chi ủy viên Chi bộ xã Phú Thạnh Đông.

Năm 1954, sau khi tiễn người chồng thân yêu tập kết ra miền Bắc, bà ở lại quê nhà chăm sóc cha mẹ già và 2 con nhỏ, vừa làm Bí thư Chi bộ mật xã Phú Thạnh Đông, lãnh đạo nhân dân vượt qua thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng. Tháng 11-1954, bà tổ chức Mít tinh mừng hòa bình và đòi chính quyền địch thực hiện Hiệp định Genève với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng.

Cuối năm 1956 bà bị địch bắt. Mặc dù bị chúng tra tấn dã man, bà vẫn giữ vững khí tiết. Sau 3 tháng ở trại giam Gò Công, không khai thác được gì, địch chuyển bà lên nhà lao Thủ Đức, đưa vào trại biệt giam dành cho thành phần nguy hiểm. Ở đây, bà đã phát động đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc, lãnh đạo chị em tù chính trị phản đối việc hô khẩu hiệu chống cách mạng.

Trả đũa, bọn giám ngục bắt bà xuống hầm tối và đánh đập dã man. Thấy vậy, một số nữ tù khuyên bà bớt đấu tranh, dưỡng sức để chiến đấu lâu dài với địch. Thế nhưng, với ý chí tiến công của người chiến sĩ cách mạng trung kiên, bà đã khẳng khái nói: “Các chị cứ theo nội quy nhà tù, còn đấu tranh cứ để tôi. Tôi phải xứng đáng là đảng viên cộng sản!”.

Tháng 11-1958, bà được thả. Trải qua 2 năm trong nhà tù của bọn đế quốc và tay sai, bà đã được trui rèn trong lửa đỏ, tỏ rõ chí kiên cường của một người cộng sản, là hạt nhân của cuộc đấu tranh cách mạng, là người đi đầu trong mọi gian lao, nguy hiểm. Khi bà trở về địa phương thì cơ sở cách mạng bị địch đánh phá ác liệt và gần như tan vỡ hoàn toàn. Với tinh thần vượt khó cao độ, bất chấp gian khổ, hy sinh, bà lao vào công tác, hoạt động đơn tuyến, gầy dựng lại phong trào.

Năm 1961-1962, bà được cấp trên cử đi học khóa Y sĩ. Năm 1963, sau khi hoàn tất khóa học, bà được điều về làm Phó ban Dân y huyện Tây.

Từ năm 1965 – 1969, Gò Công bị bình định trắng, địch đánh phá liên tục, số thương binh ở trạm dân y do bà phụ trách có lúc lên đến 70 – 80 người, tiền bạc, lương thực, thuốc men cạn kiệt. Bà đã không ngại khó khăn, nguy hiểm, tìm về cơ sở gặp Hội Phụ nữ các xã để vận động quyên góp được hàng trăm ký gạo và một số tiền lớn, tổ chức đường dây mua thuốc, dụng cụ y tế ở Mỹ Tho, Sài Gòn để cứu chữa thương binh.

Năm 1968, bà được đề bạt làm Trưởng ban Dân y huyện. Đầu năm 1969, một tin đau thương đến với bà: Cả 2 con trai bà đều anh dũng hy sinh trên chiến trường. Nén nỗi đau thương, bà hăng say công tác với quyết tâm chiến đấu giải phóng quê hương, trả thù cho bao đồng đội, đồng chí và 2 người con thân yêu của mình đã “vì nước quên thân”.

Tháng 10-1969, địch càn vào trạm dân y huyện. Trước tình hình khẩn cấp lúc đó, bà cùng với các cán bộ của trạm đã nhanh chóng chuyển toàn bộ thương binh đến nơi trú ẩn an toàn. Sau đó bà cùng với 2 nữ đồng chí xuống hầm bí mật.

Do có chỉ điểm, bọn địch phát hiện hầm của bà và liên tục gọi hàng. Một lúc sau, thấy gọi hàng không kết quả, chúng dùng súng bắn cấp tập xuống hầm. Kiên quyết không để bị địch bắt, bà và đồng đội bật nấp hầm tung lựu đạn, đánh trả địch. Tuy nhiên, do quân địch đông và hỏa lực mạnh, bà và đồng đội đã anh dũng hy sinh ngay tại miệng hầm.

Về phía địch, có 1 tên đền tội và 3 tên khác bị thương. Trước lúc hy sinh, bà đã xé nát tất cả tiền bạc, giấy tờ và đập bể dụng cụ y tế, quyết không để lọt vào tay giặc. Sự hy sinh oanh liệt của bà và đồng đội đã làm cho bọn địch khiếp đảm. Về phía ta, gần 100 thương binh và cán bộ, chiến sĩ đơn vị được an toàn.

Bà đã hy sinh vì nước năm 43 tuổi. Năm 2007, bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, tại thị trấn Vĩnh Bình (huyện Gò Công Tây) có 1 con đường mang tên bà.

Song Lan- Báo Ấp Bắc